Rối loạn lipid máu không phải là một bệnh mà là một hội chứng, có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm như nhồi máu cơ tim, đột quỵ,… Cùng tìm hiểu về hội chứng Rối loạn lipid máu thông qua bài viết sau đây!
Khái niệm rối loạn lipid máu
Rối loạn lipid máu (bệnh mỡ máu) là tình trạng xảy ra khi có một hoặc nhiều các rối loạn sau:
- Tăng cholesterol toàn phần cao hơn 5,2 mmol/L (200 mg/dL)
- Tăng triglyceride trong máu cao hơn 1,7 mmol/L (150mg/dL)
- Tăng LDL-C lớn hơn 2,58 mmol/L (100mg/dL) – một lipoprotein xấu
- Giảm HDL-C nhỏ hơn 1,03 mmol/L (40 mg/dL) - một lipoprotein tốt có tính bảo vệ thành mạch.
Nguyên nhân dẫn đến rối loạn lipid máu
Rối loạn lipid máu là một hội chứng, tiến triển từ từ và kéo dài, có tình chất mạn tính, nguyên nhân gây bệnh do nhiều yếu tố khác nhau gây ra, tuy nhiên có thể xác định dựa trên nguyên nhân nguyên phát và thứ phát
- Nguyên nhân nguyên phát: thường gặp ở trẻ em, do một hoặc nhiều đột biết gen làm tăng tổng hợp quá mức hoặc giảm thải triglyceride hay cholesterol, hoặc tổng hợp không đủ hay đào thải quá mức HDL dẫn đến rối loạn lipid máu.
- Nguyên nhân thứ phát: thường gặp ở người trưởng thành do dung nạp quá nhiều thức ăn giàu chất béo bão hòa, cholesterol và mỡ động vật. Những nguyên nhân thứ phát khác gồm các bệnh lý nguy cơ như đái tháo đường, bệnh thận mạn tính, suy giáp trạng, xơ gan mật nguyên phát, dùng các thuốc như thiazid, chẹn β giao cảm, estrogen, progestin và glucocorticoid, uống nhiều rượu bia.
Ngoài ra, cần lưu ý đến nguyên nhân gây tăng triglyceride (TG) và gây giảm HDL-C vì khi hai trường hợp này xảy ra có thể dẫn đến xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây nhồi máu cơ tim và đột quỵ
- Nguyên nhân gây tăng Triglycerid máu
+ Thiếu hụt gen lipase tiêu huỷ lipoprotein hoặc apolipoprotein C-II.
+ Tăng TG có tính chất gia đình.
+ Béo phì.
+ Uống quá nhiều rượu.
+ Đái tháo đường.
+ Dùng thuốc chẹn bêta giao cảm kéo dài.
- Nguyên nhân gây giảm HDL-C.
+ Hút thuốc lá.
+ Béo phì.
+ Lười vận động thể lực.
+ Đái tháo đường không phụ thuộc insulin.
+ Tăng TG máu.
+ Dùng thuốc chẹn bê ta giao cảm kéo dài.
+ Rối loạn gen chuyển hoá HDL.
Biến chứng của rối loạn lipid máu
Hậu quả trực tiếp của rối loạn chuyển hóa lipid máu là biến chứng mạch máu gây xơ vữa động mạch dẫn đến nhiều bệnh nguy hiểm. Ngoài ra, rối loạn mỡ máu còn liên quan đến nhiều các rối loạn chuyển hóa khác.
Bệnh tim mạch
Tăng cholesterol trong máu là nguyên nhân chủ yếu của quá trình xơ vữa và dần làm hẹp các động mạch cung cấp máu cho tim. Đặc biệt, khi cả cholesterol và triglyceride cùng gia tăng thì nguy cơ này cao hơn gấp nhiều lần và thúc đẩy nhanh hơn quá trình xơ vữa động mạch, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng gây thiếu máu cơ tim, nguy hiểm hơn là nhồi máu cơ tim. Có đến 90% trường hợp nhồi máu cơ tim là do biến chứng của mảng xơ vữa.
Tăng huyết áp
Tăng mỡ máu gây nên các mảng xơ vữa, khiến lòng mạch hẹp lại, thành mạch kém đàn hồi làm tăng sức đề kháng lên lòng mạch máu. Để cung cấp đầy đủ nhu cầu máu, cơ thể có những đáp ứng như tăng nhịp tim, tăng sức co bóp cơ tim, tăng hấp thu giữ nước trong cơ thể... dẫn đến tăng huyết áp.
Bên cạnh đó, tăng mỡ máu còn làm tăng độ nhớt của máu. Đây cũng là một yếu tố góp phần làm tăng huyết áp. Bản thân tăng huyết áp lại làm tổn thương nội mô mạch máu, các LDL dư thừa trong máu bị oxy hóa dễ dàng xâm nhập và làm nặng hơn tình trạng xơ vữa. Tăng huyết áp dễ dẫn đến các bệnh lý tim mạch nguy hiểm, suy thận, tổn thương động mạch mắt gây mù lòa, tai biến mạch máu não...
Đột quỵ
Rối loạn chuyển hóa lipid máu, đặc biệt ở người tăng cholesterol, khiến cho tinh thể cholesterol dễ lắng đọng trong thành mạch, hình thành mảng xơ vữa. Các mảng xơ vữa di chuyển từ nơi khác đến hoặc hình thành ngay tại mạch máu não sẽ làm hẹp lòng mạch, dẫn đến giảm lưu lượng tuần hoàn và gây thiếu máu não. Ở giai đoạn nặng hơn, dòng máu lên não có thể bị tắc nghẽn hoàn toàn và gây ra đột quỵ não (nhồi máu não).
Gan nhiễm mỡ
Gan nhiễm mỡ là khi có sự tích luỹ của chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của gan. Gan nhiễm mỡ thường không có triệu chứng rõ ràng, mặc dù nó trực tiếp gây suy giảm chức năng gan và làm xơ gan. Người bệnh có thể chỉ cảm thấy mệt mỏi và khó chịu ở vùng thượng vị và hạ sườn phải. Tình trạng gan nhiễm mỡ nặng có thể có biểu hiện vàng da, đau bụng, buồn nôn, ói mửa và gan to.
Sỏi mật
Khi lượng cholesterol trong cơ thể gia tăng, nồng độ của chúng trong mật cao, nồng độ muối mật thấp, cùng với sự ứ đọng dịch mật, cholesterol sẽ bị kết tủa trong dịch mật hình thành sỏi mật. Sỏi mật có thể làm viêm túi mật, nguy cơ tắc ống dẫn mật, gây đau bụng, buồn nôn, sốt, vàng da...
Tiểu đường
Rối loạn chuyển hóa lipid máu làm tăng các chất béo tự do trong máu, làm chết hoặc rối loạn chức năng tế bào tụy gây tăng đường huyết. Rối loạn mỡ máu kéo theo rối loạn chuyển hóa đường; đồng thời bệnh tiểu đường lâu dần cũng sẽ gây ra rối loạn mỡ máu. Vì vậy, hai bệnh này có liên quan với nhau rất chặt chẽ, hầu hết bệnh nhân tiểu đường có rối loạn mỡ máu. Phần lớn các tổn thương mạch máu trong bệnh tiểu đường đều là hậu quả của việc rối loạn mỡ máu.
Béo phì
Bệnh béo phì làm tăng nồng độ triglyceride và LDL-cholesterol, làm giảm nồng độ HDL-cholesterol trong máu. Khoảng 90% bệnh nhân béo phì, béo bụng gặp rối loạn chuyển hóa lipid máu. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng hình thành và phát triển bệnh xơ vữa động mạch. Do đó, việc phát hiện sớm rối loạn mỡ máu ở bệnh nhân béo phì có thể giúp điều trị và dự phòng sớm những hậu quả do béo phì gây ra.
Điều trị rối loạn lipid máu
Trong điều trị rối loạn lipid máu, bệnh nhân cần phối hợp điều trị dùng thuốc và điều trị không dùng thuốc
Phương pháp điều trị không dùng thuốc:
- Chế độ ăn uống hợp lý:
+ Hạn chế cung cấp các chất béo qua chế độ ăn, đặc biệt là mỡ động vật, nên thay thế bằng dầu thực vật nhưng cũng ăn lượng vừa phải
+ Tránh xa các đồ nướng, chiên, xào,…
+ Hạn chế rượu bia và các chất kích thích
+ Nên ăn nhiều rau củ, quả và rau xanh, uống nhiều nước mỗi ngày
+ Lượng tinh bột và lipid đưa vào cơ thể mỗi ngày cũng cần kiểm soát trong giới hạn cho phép
+ Kết hợp luyện tập thể dục thích hợp
- Chế độ sinh hoạt hợp lý:
+ Ngủ đủ 8 tiếng mỗi ngày
+ Sinh hoạt hợp lý với một chế độ tập thể dục phù hợp với sức khỏe
+ Trong chế độ sinh hoạt hàng ngày hạn chế tiếp xúc dị nguyên gây bệnh.
Phương pháp điều trị bằng thuốc:
Với mỗi trường hợp rối loạn lipid máu khác nhau mà cần kê đơn thuốc phù hợp, các loại thuốc được kê đơn chủ yếu trong điều trị rối loạn lipid máu gồm:
- Các loại resins gắn acid mật: Các thuốc này không hấp thu qua ruột, nó gắn với acid mật làm giảm hấp thu lipid.
- Nicotinic acid (Niacin): là một loại vitamin tan trong nước, ức chế gan sản xuất ra các Lipoprotein.
- Thuốc ức chế men HMG-CoA Reductase (nhóm Statin): Các thuốc này ức chế hoạt hoá men HGM-CoA-reductase làm giảm tổng hợp Cholesterol trong tế bào gan và tăng hoạt hoá thụ thể LDL do đó làm giảm LDL-C trong máu.
- Các dẫn xuất fibrat (acid fibric) bao gồm: Các thuốc này làm giảm VLDL và do đó làm giảm TG khoảng 20-50%, làm tăng HDL-C khoảng 10-15%